Đình làng Bát Tràng là một trong những di tích được rất nhiều người quan tâm. Đã có rất nhiều người tìm hiểu và thu thập thông tin về vấn đề này và luôn có những thắc mắc được đặt ra. Để biết một cách đầy đủ nhất về di tích này hãy cùng chúng tôi tham khảo bài tổng hợp Di tích đình làng bát tràng và những điều bạn chưa biết – Phần 1 ngay sau đây:

Khảo tả di tích đình làng bát tràng
Đình Bát Tràng được xây dựng trên khu đất cao. Đây được đánh giá là kiến trúc cói quy mô khá lớn theo hướng tây nam và nhìn ra sông Hồng. Khá rộng rãi, di tích đình làng bát tràng bao gồm:
Nghi môn: có dạng trụ kết hợp với tường lửng tạo thành. Trụ được xây bằng gạch có mặt cắt ngang hình vuông cạnh 40cm trên đỉnh có gắn tượng nghệ bên dưới đắp nổi đề tại tứ quý. Dọc theo thân là những câu đối bằng tiếng Hán.
Một khoảng tường lơ lửng của nghi môn khoảng 1,5 m có 2 cổng nhỏ trên nắp giả mái. Từ cổng nhỏ này xây tường lửng chạy dài tạo thành tường bao.
Sân đình: Sân đình khá rộng 16 x18m. Toàn bộ đều được lót gạch bát tràng.

Đình chính: Sẽ bao gồm đại đình và hậu cung
- Đại đình: Nhà được xây theo kiểu nhà 8 mái bằng vật liệu khá hiện đại. Chính giữa mái là một con rồng lớn, đầu nổi cao. Bốn góc đao mái hơi vát gắn một đầu rồng và hình lưỡi mác tương tự như phần đao mái dưới cũng được làm như vậy. Phần cổ diêm giữa 2 mái được bưng bằng gạch.
Nhà xây trên nền cao 1m2 so với mặt sân với 7 bậc lên xuống được làm bằng gạch tại làng bát tràng. Mái đổ bê tông phía trên dán ngói ta và nền nhà láng xi măng.
Nhà có hiên rộng, 2 đầu hồi hiên đắp tượng 2 ông tướng.
- Hậu cung: Kiến trúc này được nối với đại đình bằng 2 đầu bê tông hơi cong dài 4,7m trên nền cao 1,5m. Nó là một nếp nhà ngang xây gạch kiểu tường hồi bít đốc tai ngai, mái lợp ngói ta.
Tả hữu mạc: Nằm 2 bên sân và phía sau nghi môn. Mỗi dãy gồm 2 gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc tai ngai và mái lợp ngói ta. Mặt trước nhà để trống, nền nhà được tôn cao 40cm lát gạch bát tràng 30×30 cm. Nhà Tả mạc là nơi thờ tổ tiên các dòng họ trong làng, còn nhà Hữu mạc là nơi thờ quan ôn, quan đương niên.

Địa điểm di tích đình làng bát tràng phân bố như thế nào?
Bát Tràng là tên của một xã ở Hà Nội, trước đây là của tỉnh Hưng Yên. Xã Bát Tràng gồm 2 thôn là Bát Tràng và Giang Cao, nằm bên tả ngạn sông Hồng. Đây là một ngôi làng có bề dày lịch sử vẻ vang nên làng gốm sứ Bát Tràng lưu truyền và phát triển cho tới bây giờ. Hiện nay Đình làng bát tràng thuộc thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đình Bát Tràng được xây dựng vào năm 1720. Với kiến trúc bề thế, đình quay về hướng Tây, nhìn ra dòng sông Hồng. Từ trung tâm Hà Nội bạn có thể di chuyển bằng đường thủy hoặc đường bộ tới thăm di tích, đều rất thuận lợi. Chính vì thế có thể thấy du khách trong và ngoài nước đến đây ngày một nhiều hơn.
Nếu di chuyển bằng đường thủy chúng ta phải đi từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, mà mất khoảng 30p để tới đình làng bát tràng. Với đường bộ bạn phải đi qua cầu Long Biên ( trước đây là cầu Chương Dương) dọc theo đê sông Hồng khoảng 15km là tới.
Khách thăm cũng có thể theo quốc lộ 5 đến Trâu Quỳ, rẽ phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến xã Bát Tràng. Từ dốc Giang Cao, theo đường làng khoảng 800m là tới đình Bát Tràng. Di tích nằm sát sông Hồng.
Đình làng Bát Tràng một công trình kiến trúc văn hóa tâm linh được công nhận là di tích lịch sử kiến trúc Nghệ thuật . Với cách di chuyển cực kỳ thuận lợi, đây là điểm đến của du khách.
Đình Bát Tràng ngôi đình mang những nét riêng độc đáo không theo một khuôn khổ nào. Đã có nhiều bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu danh tiếng về di tích này, nên việc tìm hiểu của bạn đọc ngày càng dễ dàng hơn.

Sự kiện các nhân vật lịch sử tại Đình làng Bát Tràng
Bát Tràng là khu vực có nhiều đất sét trắng, cụ thể có nhiều thông tin cho rằng ở đây có tới 72 gò đất sét trắng, đây được nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Chính vì thế một số thợ gốm Bồ Bát cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm và gọi là Bạch Thổ. Nơi đây làm ăn phát đạt vào các thế kỷ 13-15, cũng từ đó Bát Tràng trở thành trung tâm gốm nổi tiếng. Những người con giỏi giang nơi đây không chỉ giỏi nghề làm gốm mà còn giỏi buôn bán và làm quan.
Gân Kinh thành, lại nằm sát bên dòng sông Nhi, Bát Tràng Có Y! ” và đường giao thông thuận lợi để phát triển về Công thương nghiệp. Đặc biệt, vùng này có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Nhân dân địa phương truyền rằng, xưa ở đây có 72 gò đất sét trắng. Một số thợ gốm Bộ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường đất trắng). Đợt di cư đầu tiên, theo gia phả họ Trần, bắt đầu từ triều Lý. Phường gốm Bạch Thổ làm ăn phát đạt lôi cuốn dân cư Bồ Bát trong các thế kỷ 13-15. Từ đây, Bát Tràng trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng, là nơi hội tụ của thuyền buôn và thương gia các nơi đến mua bán hàng hoá.
Cách Bát Tràng không xa, tại xã Đa Tốn, đã phát hiện và thu thập một số đồ gốm Bát Tràng có niên đại cuối Trần, đầu Lê. Và, trong khi đào kênh Bắc Hưng | Hải (1958) cắt qua làng Bát Tràng đã tìm thấy dấu tích làng Bát Tràng gồm: những di tích nhà ở, sân gạch, đường lát gạch…nằm ở độ sâu 12-13m.

Do điều kiện tự nhiên và kinh tế đó, làng Bát Tràng mang đặc điểm riêng về cấu trúc xóm làng, tổ chức nhà ở và đời sống văn hoá: đường làng hẹp, ngoắt ngéo hầu hết được lát gạch, hai bên là tường cao và nhà gạch san sát; không có bờ tre và vườn cây. Đất đai hầu hết được sử dụng làm nhà ở và cơ sở sản xuất gốm. Làng không chia thành phe, giáp như nhiều làng quê khác trong vùng…. đây, các dòng họ đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của dân làng. .
Ngoài nghề thủ công gốm sứ bát tràng còn nổi danh với những bậc khoa bảng mà tên tuổi của họ làm rặng rỡ quê hương. Cụ thể có thể nhắc tới như: nguyên Giáp Hải, 8 vị tiến sĩ và còn nhiều võ quan nổi tiếng. Cũng từ đó mà các thiết chế xã hội và các truyên thống văn hóa của đình làng bát tràng ra đời.
Cùng với thời gian, các thiết chế xã hội và truyền thống Văn hoá của làng được hình thành và được bồi đắp. Hệ thống các di tích kiến trúc tôn giáo ra đời. Đó là Văn chỉ Bát Tràng thờ các vị khoa bảng mà tên tuổi của họ làm nên truyền thống, quê hương ; là ngôi chùa Bách Linh, chùa Kim Trúc, chùa Tiêu Giao đều có niên đại ra đời sớm, và, đặc biệt, ngôi đình cổ Bát Tràng bề thế nổi tiếng xứ Kinh Bắc xưa.
Theo truyền thuyết ở địa phương, đình Bát Tràng được xây dựng từ sớm, khoảng thế kỷ 15 do các ông họ Nguyễn và họ Phùng có công lao trong việc dựng đình.Theo bài “Tạo đình ký” trên quả chuông Tay Sơn ở đình đã cho biết quy mô trước kia của đình:
“Xưa kia mộc mạc mao từ
Nay thời ngói lợp chu vi trang hoàng
Xưa kia tre trúc tầm thường
Nay thời gỗ thiết vững vàng biết bao“

Và cho biết :”Đình được làm lại, lợp ngói với quy mô đồ sộ vào tháng chạp năm Canh tý niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông (1720), đình xây theo kiểu chữ nhị, phía trong là toà hậu cung 3 gian, phía ngoài là toà đại bái 5 gian 2 chái. Cột đình làm bằng gỗ lim to hàng người ôm. Các gian bên được lát bục gỗ để làm chỗ ngồi. Đình trông ra dòng sông Nhị mênh mông, xa xa là núi Tam Đảo, Ba Vì, địa thế thật là đẹp đẽ”. | Năm 1956 dân làng Bát Tràng đã soạn bài ký về việc xây dựng đình. Bài ký có nội dung cơ bản như nội dung của bài ký trên chuông
Trải qua thời gian, thiên tai, nhất là nạn lở bồi theo dòng chảy sông Hồng, ngôi đình không còn nguyên vẹn như xưa nữa. Từ năm 1720 đến nay, sự vận hành của ngôi đình không còn tài liệu nào ghi chép lại.
Đình Bát Tràng được xây dựng từ rất sớm do ông họ Phùng và họ Nguyễn dựng đình vào Lê Dụ Tông. Kiến trúc đình theo lối chữ Nhị, Phía trước là tòa Đại bái gồm 5 gian 2 trái với hai tầng bục gỗ và được dựng bởi nhiều cây cột gỗ lim lớn hàng vòng tay người ôm không xuể. phía sau là Hậu cung, nơi thờ 6 vị thánh thần được được suy tôn là Lục vị Thành Hoàng. Đình Bát Tràng sở hữu một vị trí vô cùng đẹp đẽ, nhìn ra sông Nhị mênh mông, xa xa là núi Tam Đảo.

Lần sửa đổi cuối cùng: sửa hậu cung (1974), xây cổng đình (1992), làm lại đại đình (1993), làm nhà tả hữu mạc (1995). Hiện nay thì Đình Bát Tràng thờ 6 vị làm thành hoàng: Bạch Mã đại vương, Lưu Thiên Tử đại vương, Trang Thuận Nghi Dung, Lã Thánh Mẫu, Hộ Quốc Đại Vương, Phan Đại tướng Đại Vương và Trịnh Tự đại vương.
Các lễ hội tại di tích Đình làng Bát Tràng
Lễ hội tại di tích Đình Bát Tràng trước kia được tổ chức trong 7 ngày. Cụ thể thời gian là từ 7/2 âm lịch đến ngày 14/2 âm lịch. Trong đó có các nghi lễ như:
Lễ rước nước được diễn ra vào ngày 7: Dùng thuyền chở một chum do chính người thợ tại làng bát tràng làm ra. Đến giữa dòng sông Nhị, khi đó một người trong nhà họ Nguyễn Nịnh Tràng dùng gáo múc nước đổ vào chum. Sau đó, sẽ dùng nước này để tắm các bài vị.
Một số ngày khác diễn ra các lễ như : ngày 8 sẽ rước thần, ngày 9 hát thờ, ngày 10 tế thần, ngày 11 khao vách tả, ngày 12 khao vách hữu, ngày 13 khao kỳ anh, ngày 14 rước thần về miếu.
Sau khi cung tế ở đình làng bát tràng, ngoài những mâm kính biếu theo thứ bậc thì sẽ được dọn ra cho mọi người dự hội cùng ăn.
Đây là những nghi thức được thực hiện trước kia, ngày nay thì mọi nghi lễ được tổ chức đơn giản hơn rất nhiều và sẽ thường vào ngày 15/2 âm lịch. Ngoài ra, đình còn tổ chức kết chạ với làng Nam Dư Hạ bên bờ Nam sông Hồng.
Định Bát Tràng được xây dựng nhằm đáp ứng 2 chức ăn sau đây:
- Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây
- Đình là nơi thờ phụng thờ những vị thần có công trong việc bảo hộ cuộc sống cho dân làng.

Giá trị của đình làng bát tràng và các phương pháp bảo vệ di tích
Ai cũng biết Bát Tràng là một làng nghề truyền thống nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nước ngoài. Cái tên này đã đi vào cuộc sống của người dân Việt được thể hiện kể cả trong những câu ca dao tục ngữ. Bên cạnh sự nổi trội về nghề gốm thì như chúng tôi đã chia sẻ nơi đây còn cái đặc sắc nữa là có gần chục Trạng Nguyên , tiến sĩ…
Bát Tràng không thờ tổ nghề mà đình làng là nơi để tưởng niệm về những nhân vật có công với nước với dân. Các chứng tích này dù trải qua nhiều triều đại lịch sử, qua các vương triều khác nhau nhưng nó vẫn được dân làng Bát Tràng trân trọng và giữ gìn.
Đình Bát Tràng hiện nay không còn lưu giữ được dáng vẻ ban đầu những quy mô và những không gian thoáng đãng bên dòng sông hồng vẫn không thay đổi. Mặc dù khôi phục nhưng mặt bằng truyền thống vẫn được giữ gìn.
Tóm lại đình làng bát tràng có những đóng góp đáng kể trong việc cũng cố và điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên của làng. Di tích này sẽ mãi là vốn cổ quý hiếm trong việc giáo dục và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc sẽ mãi là niềm tự hào của người dân Bát Tràng.

Đình Bát Tràng hiện nay được bảo quản khá tốt mọi cảnh quan đều được nguyên vẹn. Ngoài việc trông nom hằng ngày còn thường xuyên sưu tầm các tư liệu liên quan để làm phong phú thêm cho nội dung lịch sự cho di tích.
Đình Bát Tràng là vốn cổ quý giá, chính vì thế mà luôn được bảo vệ một cách tốt nhất! Ngoài tạo việc tạo cơ sở pháp lý cho di tích địa phương cần lập phuơng án cụ thể để bảo vệ và giữ gìn các di vật quý hiếm. Công việc này vừa có tác dụng trong việc giữ gìn tài sản vừa giúp công tác quản lý và nghiên cứu diễn ra tốt hơn..
Trước đây , nhà nước phong kiến thường ban sắc phong tặng cho vị thần thờ. Nhưng ngày nay, để bảo vệ di tích địa phuơng cùng ngành văn hóa cấp trên tiến hành lập hồ sơ khoa học hồ sơ pháp lý, trước mắt để tỉnh ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định đăng kí cho di tích. Về lâu dài sẽ tiến hành lập hồ sơ đề nghị bộ văn hóa thông tin công nhận.
Những dị vật tại di tích đình làng Bát Tràng
Được hình thành từ rất lâu và trải qua rất nhiều biến cố, tuy nhiên thì đình bát tràng vẫn còn giữ được nhiều di vật phong phú. Trong kháng chiến, đình bát Tràng đã bị bom Mỹ phá hủy. nhưng tới năm 1993, dân làng đã góp tiền của dựng lại đình theo kiến trúc truyền thống.
Tại đình bát tràng hiện nay còn giữ được một số đồ tế khí như ngai thờ, bát bửu, chuông đồng, kiệu bát cống, hai biển gỗ tạo vào thời Minh Mạng, cùng nhiều hoành phi, câu đối cỡ lớn, mỗi chữ có thể coi là một tác phẩm thư pháp độc đáo.
Đình Bát Tràng còn giữ được 50 đạo sắc phong thần có niên đại thời Lê, thời Tây Sơn, thời Nguyễn.
Một số di vật vẫn còn bảo lưu tới bây giờ: bộ bát bửu sơn son thép vàng, hương án trang trú rồng phượng thế kỷ 17, biển gỗ, 5 ngai thờ sơn son thếp vàng, án văn trang trí rồng chầu mặt trời, lư hương đồng có đúc nổi 4 chữ hán lớn, kiệu bát cống trong có đặt tượng Lã Thánh Mẫu, quả chuông đồng cao, 6 pho tượng đưa ở miếu cũ về, 9 bức hoành phi, 8 đôi câu đối và 44 đạo sắc phong của các vương triều Lê – Tây Sơn và Nguyễn.

Với những thông tin chúng tôi cập nhật trên đây chắc chắn sẽ giúp các bạn hiểu hơn về di tích đình làng bát tràng này rồi đúng không nào. Các bạn cũng có thể tham khảo tiếp Di tích đình làng bát tràng và những điều bạn chưa biết – Phần 2 nhé!